Ronald Koeman - Everton. HLV người Hà Lan từng là một cầu thủ chiến thắng ở cả sự nghiệp CLB lẫn đội tuyển.
Koeman khởi nghiệp ở Eredivisie - giải vô địch Hà Lan, khoác áo Ajax rồi PSV từ năm 1983 tới 1989. Ông vô địch Cup C1 (tiền thân của Champions League) năm 1988 trong màu áo PSV. Năm 1992, ông giành vẻ vang này lần thứ hai lúc chơi cho Barca.
Ông là HLV duy nhất tại siêu hạng Anh từng giành danh hiệu to ở level đội tuyển, với chức vô địch Euro 1988 cộng đội tuyển Hà Lan. Koeman mang 78 lần khoác áo "Cơn lốc màu da cam", ghi 14 bàn thắng.
những danh hiệu của Koeman khi còn thi đấu: Eredivisie (1984-1985, 1986-1987, 1987-1988, 1988-1989), Cup đất nước Hà Lan (1985-1986, 1987-1988, 1988-1989), La Liga (1990-1991, 1991-1992, 1992-1993, 1993-1994), Cup Nhà Vua Tây Ban Nha (1989-1990), Siêu Cup Tây Ban Nha (1991, 1992, 1994), Cup C1 (1987-1988, 1991-1992), Siêu Cup châu Âu (1992), Euro (1988).
Pep Guardiola - Man City. Trước lúc biến thành một HLV hàng đầu thế giới, Guardiola từng là cầu thủ cột trụ của Barca và giành phổ biến danh hiệu. Ông quán quân Cup C1 1992 và giành sáu danh hiệu La Liga, trước khi chuyển sang khoác áo Brescia, Roma và Al-Ahli vào quá trình cuối sự nghiệp. Ở level đội tuyển, ông góp mặt ở World Cup 1994, Euro 2000. Guardiola với 47 lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha, ghi năm bàn. Ông từng giành huy chương vàng Olympic 1992.
những danh hiệu của Guardiola khi còn thi đấu: La Liga (1990-1991, 1991-1992, 1992-1993, 1993-1994, 1997-1998, 1998-1999), cụp Nhà Vua (1996-1997, 1997-1998), Siêu Cup Tây Ban Nha (1991, 1992, 1994, 1996), Segunda Division B (1990-1991), Cup C1 (1992), Cup C2 (1996-1997), Siêu Cup châu Âu (1992, 1997), HC vàng Olympic 1992.
Mark Hughes - Stoke. HLV người xứ Wales sở hữu một sự nghiệp chiến thắng tại Man Utd và từng khoác áo Barca, Bayern Munich. Ông giành hai chức vô địch trác tuyệt Anh, bốn Cup FA và một Cup C2 (tiền thân của Europa League).
Ở cấp độ đội tuyển, Hughes nằm trong top 10 cầu thủ mang số lần khoác áo và làm bàn phổ thông nhất cho Xứ Wales. Ông có 72 lần ra sân, ghi 16 bàn. tuy nhiên, Hughes chưa lần nào được dự giải đấu to.
các danh hiệu của Mark Hughes lúc còn thi đấu: siêu việt Anh (1992-1993, 1993-1994), Cup FA (1984-1985, 1989-1990, 1993-1994, 1996-1997), Cup Liên đoàn (1991-1992, 1997-1998, 2001-2002), Siêu Cup Anh (1990, 1993, 1994), Cup C2 (1990-1991), Siêu Cup châu Âu (1991).
Antonio Conte - Chelsea. Conte là huyền thoại của CLB Juventus. Ông khoác áo đội quả bóng này hơn 400 trận diễn ra từ chuyển tới năm 1991. Trước ngừng thi côngĐây, Conte đá cho Lecce.
Conte thi đấu cho Juventus trong 13 năm, giành khá phổ quát danh hiệu, trong Đó mang Champions League 1995-1996 và năm scudetto. Ở màn chơi đội tuyển, ông có 20 lần khoác áo tuyển Italy, ghi nhì bàn, nhưng mà không giành được danh hiệu mập nào, chỉ nhì lần về nhì ở World Cup 1994 và Euro 2000.
các danh hiệu của Conte khi còn thi đấu: Serie A (1994-1995, 1996-1997, 1997-1998, 2001-2002, 2002-2003), Coppa Italia (1994-1995), Siêu Cup Italy (1995, 1997, 2002, 2003), Champions League (1995-1996), Cup UEFA (1992-1993), Siêu Cup châu Âu (1996), Intertoto Cup (1999), Cup Liên đất liền (1996).
Aitor Karanka - Middlesbrough. Karanka dành tất cả sự nghiệp thi đấu ở Tây Ban Nha trong màu áo Athletic Bilbao, đội B của CLB này trước lúc chuyển đến Real Madrid năm 1997.
Ông thi đấu ở sân Bernabeu trong năm năm, chủ chốt có vai trò dự bị. không những thế, đây là thời gian sở hữu về cho Karanka phổ biến danh hiệu, bao gồm ba chức quán quân Champions League. Ở level đội tuyển, Karanka chỉ 1 lần khoác áo tuyển Tây Ban Nha ở cuộc đấu mang Armenia thuộc vòng dòng Euro năm 1995.
những danh hiệu của Karanka lúc còn thi đấu: La Liga (2000-2001), Siêu Cup Tây Ban Nha (1997, 2001), Champions League (1997-1998, 1999-2000, 2001-2002), Cup Liên đất liền (1998).
Mauricio Pochettino - Tottenham. Pochettino khởi đầu sự nghiệp ở Newell's Old Boys, đội bóng nhưng mà Lionel Messi, Diego Maradona và Gabriel Batistuta từng khoác áo.
Năm 1994, ông chuyển đến Tây Ban Nha thi đấu cho Espanyol trước khi có thời kỳ thi đấu thành công ở Pháp trong màu áo PSG và Bordeaux. cuối cùng, Pochettino về chơi cho Espanyol và chấm dứt sự nghiệp ở đây. Ở level đội tuyển, Pochettino sở hữu 20 lần khoác áo đội tuyển Argentina, ghi hai bàn. Ông ra sân cả ba trận của đội tuyển tại World Cup 2002, nơiArgentina bị dòng ngay trong khoảng vòng bảng.
những danh hiệu của Pochettino khi còn thi đấu: vô địch đất nước Argentina (1990-1991), Clausura (1992), Cup Nhà Vua Tây Ban Nha (1999-2000, (2005-2006).
Claude Puel - Southampton. Puel khởi nghiệp ở CLB Castres FC. Sau chậm tiến độ, ông được AS Monaco phát hiện và chiêu tập năm 1977. từ chậm tiến độ, ông thi đấu cho đội bóng này tới khi giải nghệ. Puel khoác áo Monaco 601 lần.
các danh hiệu của Claude Puel lúc còn thi đấu: Ligue một (1981-1982, 1987-1988), Cup quốc gia Pháp (1980, 1985, 1991), Siêu Cup Pháp (1985), Coppa delle Alpi (1979, 1983, 1984).
Slaven Bilic - West đam mê. Bilic từng thi đấu ở Anh cho West đam mê và Everton. ngoài ra, thời kì thành công nhất trong sự nghiệp cầu thủ của ông là lúc khoác áo Hajduk Split, nơi ông giành rộng rãi danh hiệu. Bilic mang 44 lần khoác áo đội tuyển Croatia, ghi ba bàn. Ông góp công đưa đội bóng đá này về thứ ba ở World Cup 1998.
các danh hiệu của Slaven Bilic lúc còn thi đấu: Cup quốc gia Nam tư (cũ) (1990-1991), quán quân Croatia (1992), Cup quốc gia Croatia (1992-1993, 1999-2000).
Mike Phelan - Hull City. Từng thi đấu phổ thông năm cho các đội hạng dưới là Burnley và Norwich, Phelan giúp Norwich thăng hạng trước lúc chuyển đến Man Utd năm 1989. Ông thi đấu ở sân Old Trafford trong năm năm, quán quân trác tuyệt Anh mùa giải 1992-1993 và giành Cup C2 châu Âu mùa giải 1990-1991.
các danh hiệu của Mike Phelan khi còn thi đấu: siêu hạng Anh (1992-1993), Cup FA (1989-1990), Cup Liên đoàn (1991-1992), Siêu Cup Anh (1990), vô địch Division Two (1985-1986), quán quân Division Three (1981-1982), Cup C2 (1990-1991).
Alan Pardew - Crystal Palace. Pardew (trái) khởi nghiệp ở 1 CLB nghiệp dư. Năm 1987, ông gia nhập Crystal Palace và giữ đội này thăng hạng, lên giải hạng nhất Anh (khi chậm tiến độ chưa có ngoại hạng Anh). Đỉnh cao sự nghiệp của ông là vào năm 1990, lúc ghi bàn quyết định giữ Palace đánh bại Liverpool ở hiệp phụ trận bán kết Cup FA. Sau lúc rời Palace, Pardew thi đấu cho Charlton và Barnet, ông có một thời kì ngắn đá cho Tottenham dưới dạng cho mượn.
Cỏ Nhân tạo lên Nguyễn Gia - Chuyên giải đáp, thiết kế, thiết kế sân bóng đá cỏ nhân nâng cao, sân vườn cỏ nhân tăng, sân chơi cỏ nhân làm nên.
cung ứng hạt cao su sân bóng mini, lưới chắn bóng đá, lưới khung thành, lưới cầu môn và những phụ kiện sân bóng cỏ nhựa nhân tạo khác!
giải đáp chuyên nghiệp 24/7. Mọi cụ thể xin liên hệ:
KHU VỰC MIỀN BẮC 0983 403 304 Click để gọi ngay hoặc chỉ tuyến đường tới văn phòng: Số 12/27 Vạn Bảo - Liễu Giai - Ba Đình - Hà Nội | KHU VỰC MIỀN NAM 0972 312 358 Click để gọi ngay hoặc chỉ tuyến đường đến văn phòng: Số 81/10 Phạm Phú Thứ - P11 - Tân Bình - TP.HCM |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét